1. Thuật ngữ giá CIF là gì?
CIF là những chữ viết tắt của giá bán của hàng hóa xuất khẩu (Cost), phí bảo hiểm (Insurance premium) và cước phí vận chuyển (Freight) được tích tụ trong nó.
2. CIF + 10% là gì?
Những người tham gia vào thị trường mua hay bảo hiểm cho hàng hóa XNK rất quen thuộc với công thức “CIF + 10%” thường được dùng để ấn định số tiền bảo hiểm cho một chuyến hàng trong quá trình vận chuyển bằng đường biển.
Trước hết, trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hóa XNK nói riêng có 2 khái niệm thể hiện 2 yếu tố tách biệt nhưng lại liên quan đến nhau – đó là “giá trị có thể bảo hiểm được” (insurable value) và “số tiền bảo hiểm” (sum insured)
Đó là 2 yếu tố tách biệt vì khi thu xếp một hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, người mua và người bán bảo hiểm thường thỏa thuận với nhau về một số tiền bảo hiểm cụ thể. Số tiền bảo hiểm theo thỏa thuận ấy không nhất thiết phải ngang bằng với giá trị có thể bảo hiểm được.
Nhưng 2 yếu tố đó lại có mối liên quan với nhau vì yếu tố thứ nhất – giá trị nào có thể bảo hiểm được là cơ sở để người mua và người bán bảo hiểm cùng tính toán hay lựa chọn để đạt đạt được thỏa thuận về yếu tố thứ hai – tức là số tiền bảo hiểm.
Vì hàng hóa trong quá trình vận chuyển là hàng hóa ở trạng thái động nên giá trị của nó cũng là “giá trị động”, tức là giá trị ấy sẽ thay đổi trong suốt quá trình vận chuyển. Ở mỗi giai đoạn nhất định của quá trình vận chuyển nó lại tích tụ thêm các giá trị mới, tương ứng với các chi phí phát sinh ngoài các giá trị và chi phí có thể đã được xác định được từ ban đầu là là C, I và F. Các chi phí được tích tụ này làm cho giá trị của toàn bộ lô hàng tăng theo tỉ lệ thuận với chiều dài của quãng đường vận chuyển.
Có thể liệt kê những chi phí này như phí lưu giữ hàng tạm thời tại nơi đi trong khi đợi ra bến tàu, chi phí đóng gói (nếu có), chi phí vận chuyển hàng ra cầu tàu và xếp hàng lên tàu tại cảng đi, lệ phí hải quan, thuế nhập khẩu tại nơi đến, các chi phí bốc dỡ, phí đại lý tại cảng đến, chi phí vận chuyển về kho hàng của người mua và các chi phí có liên quan khác…
“… the insurable value of the subject matter insured must be ascertained as follow:
… Insurance on goods or merchandise, the insurable value is the prime cost of the property insured, plus the expenses of and incidental to shipping and the charges of insurance upon the whole”
(MIA – 1906 – Measure of insurable value – Section 16.3)
Tạm dịch là:
“ giá trị có thể bảo hiểm được của các đối tượng bảo hiểm có thể được xác định như sau:
… Bảo hiểm hàng hóa – giá trị có thể bảo hiểm được là giá sơ khai của tài sản được bảo hiểm cộng với các chi phí phát sinh trong chuyến đi và có liên quan đến chuyến đi và phí bảo hiểm cho toàn bộ tài sản đó”
Như vậy các chi phí như chi phí lưu giữ hàng tạm thời tại nơi đi, chi phí đóng gói (nếu có), chi phí vận chuyển hàng ra cầu tàu tại cảng đi, chi phí xếp hàng lên tàu, thuế nhập khẩu tại nơi đến, các chi phí bốc dỡ, phí đại lý tại cảng đến, chi phí vận chuyển về kho hàng của người mua v.v… như liệt kê ở phần trên chính là “các chi phí phát sinh trong chuyến đi và có liên quan đến chuyến đi” như thể hiện trong Bộ luật này.
Xin lưu ý rằng không có cụm từ “estimated profit” (lãi ước tính) hay bất kỳ từ hoặc cụm từ nào khác ngụ ý về “lãi ước tính” xuất hiện trong đoạn đã dẫn ở trên của Bộ Luật Bảo hiểm Anh về cách xác định giá trị có thể bảo hiểm được của hàng hóa.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể hiểu rõ hơn bản chất của con số 10% trong công thức CIF + 10% là để phản ánh (toàn bộ hoặc một phần) “các chi phí phát sinh trong chuyến đi và có liên quan đến chuyến đi”.
Nhưng tại sao lại là 10%? Có thể nhiều hơn hoặc kém hơn được không? Câu trả lời là hoàn toàn có thể được. Vì các “chi phí phát sinh trong chuyến đi và liên quan đến chuyến đi” không phải lúc nào cũng định lượng trước được một cách chính xác tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm nên giữa người bán và người mua bảo hiểm có thể thỏa thuận một con số x% nào đó. 10% chỉ là một con số hay được áp dụng, dần dần trở thành tập quán. Trong thực tế giữa người mua và người bán bảo hiểm có thể thỏa thuận một con số thấp hơn hoặc cao hơn 10% tùy thuộc vào từng hành trình cụ thể mà mức độ chi phí phát sinh có thể rất khác nhau. Không phải là không có trường hợp số tiền bảo hiểm thỏa thuận lên tới 170% giá CIF (CIF + 70%) thì mới đủ để bảo hiểm cho các chi phí phát sinh, nhất là khi các lô hàng đặc biệt nào đó bị áp thuế nhập khẩu cao tại cảng đến.
Nguồn: Internet
CIF là những chữ viết tắt của giá bán của hàng hóa xuất khẩu (Cost), phí bảo hiểm (Insurance premium) và cước phí vận chuyển (Freight) được tích tụ trong nó.
2. CIF + 10% là gì?
Những người tham gia vào thị trường mua hay bảo hiểm cho hàng hóa XNK rất quen thuộc với công thức “CIF + 10%” thường được dùng để ấn định số tiền bảo hiểm cho một chuyến hàng trong quá trình vận chuyển bằng đường biển.
Trước hết, trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hải nói chung và bảo hiểm hàng hóa XNK nói riêng có 2 khái niệm thể hiện 2 yếu tố tách biệt nhưng lại liên quan đến nhau – đó là “giá trị có thể bảo hiểm được” (insurable value) và “số tiền bảo hiểm” (sum insured)
Đó là 2 yếu tố tách biệt vì khi thu xếp một hợp đồng bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, người mua và người bán bảo hiểm thường thỏa thuận với nhau về một số tiền bảo hiểm cụ thể. Số tiền bảo hiểm theo thỏa thuận ấy không nhất thiết phải ngang bằng với giá trị có thể bảo hiểm được.
Nhưng 2 yếu tố đó lại có mối liên quan với nhau vì yếu tố thứ nhất – giá trị nào có thể bảo hiểm được là cơ sở để người mua và người bán bảo hiểm cùng tính toán hay lựa chọn để đạt đạt được thỏa thuận về yếu tố thứ hai – tức là số tiền bảo hiểm.
Vì hàng hóa trong quá trình vận chuyển là hàng hóa ở trạng thái động nên giá trị của nó cũng là “giá trị động”, tức là giá trị ấy sẽ thay đổi trong suốt quá trình vận chuyển. Ở mỗi giai đoạn nhất định của quá trình vận chuyển nó lại tích tụ thêm các giá trị mới, tương ứng với các chi phí phát sinh ngoài các giá trị và chi phí có thể đã được xác định được từ ban đầu là là C, I và F. Các chi phí được tích tụ này làm cho giá trị của toàn bộ lô hàng tăng theo tỉ lệ thuận với chiều dài của quãng đường vận chuyển.
Có thể liệt kê những chi phí này như phí lưu giữ hàng tạm thời tại nơi đi trong khi đợi ra bến tàu, chi phí đóng gói (nếu có), chi phí vận chuyển hàng ra cầu tàu và xếp hàng lên tàu tại cảng đi, lệ phí hải quan, thuế nhập khẩu tại nơi đến, các chi phí bốc dỡ, phí đại lý tại cảng đến, chi phí vận chuyển về kho hàng của người mua và các chi phí có liên quan khác…
“… the insurable value of the subject matter insured must be ascertained as follow:
… Insurance on goods or merchandise, the insurable value is the prime cost of the property insured, plus the expenses of and incidental to shipping and the charges of insurance upon the whole”
(MIA – 1906 – Measure of insurable value – Section 16.3)
Tạm dịch là:
“ giá trị có thể bảo hiểm được của các đối tượng bảo hiểm có thể được xác định như sau:
… Bảo hiểm hàng hóa – giá trị có thể bảo hiểm được là giá sơ khai của tài sản được bảo hiểm cộng với các chi phí phát sinh trong chuyến đi và có liên quan đến chuyến đi và phí bảo hiểm cho toàn bộ tài sản đó”
Như vậy các chi phí như chi phí lưu giữ hàng tạm thời tại nơi đi, chi phí đóng gói (nếu có), chi phí vận chuyển hàng ra cầu tàu tại cảng đi, chi phí xếp hàng lên tàu, thuế nhập khẩu tại nơi đến, các chi phí bốc dỡ, phí đại lý tại cảng đến, chi phí vận chuyển về kho hàng của người mua v.v… như liệt kê ở phần trên chính là “các chi phí phát sinh trong chuyến đi và có liên quan đến chuyến đi” như thể hiện trong Bộ luật này.
Xin lưu ý rằng không có cụm từ “estimated profit” (lãi ước tính) hay bất kỳ từ hoặc cụm từ nào khác ngụ ý về “lãi ước tính” xuất hiện trong đoạn đã dẫn ở trên của Bộ Luật Bảo hiểm Anh về cách xác định giá trị có thể bảo hiểm được của hàng hóa.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể hiểu rõ hơn bản chất của con số 10% trong công thức CIF + 10% là để phản ánh (toàn bộ hoặc một phần) “các chi phí phát sinh trong chuyến đi và có liên quan đến chuyến đi”.
Nhưng tại sao lại là 10%? Có thể nhiều hơn hoặc kém hơn được không? Câu trả lời là hoàn toàn có thể được. Vì các “chi phí phát sinh trong chuyến đi và liên quan đến chuyến đi” không phải lúc nào cũng định lượng trước được một cách chính xác tại thời điểm giao kết hợp đồng bảo hiểm nên giữa người bán và người mua bảo hiểm có thể thỏa thuận một con số x% nào đó. 10% chỉ là một con số hay được áp dụng, dần dần trở thành tập quán. Trong thực tế giữa người mua và người bán bảo hiểm có thể thỏa thuận một con số thấp hơn hoặc cao hơn 10% tùy thuộc vào từng hành trình cụ thể mà mức độ chi phí phát sinh có thể rất khác nhau. Không phải là không có trường hợp số tiền bảo hiểm thỏa thuận lên tới 170% giá CIF (CIF + 70%) thì mới đủ để bảo hiểm cho các chi phí phát sinh, nhất là khi các lô hàng đặc biệt nào đó bị áp thuế nhập khẩu cao tại cảng đến.
Nguồn: Internet
Bài viết liên quan
Bài viết mới